Thuốc ‘Pulmicort Respules’ Là gì?
Thuốc Pulmicort Respules dùng điều trị hen phế quản. Pulmicort Respules có thể được sử dụng khi cần thiết phải thay thế hoặc giảm liều steroid đường uống. Thuốc có thể dùng trong điều trị viêm thanh quản – khí quản – phế quản cấp (bệnh Croup) ở nhũ nhi và trẻ em.
Thành phần của ‘Pulmicort Respules’
- Dược chất chính: Budesonide 500mcg/2ml
- Loại thuốc: Thuốc hen suyễn
- Dạng thuốc, hàm lượng: Hỗn dịch khí dung 500 mcg/2ml
Công dụng của ‘Pulmicort Respules’
Thuốc được chỉ định trong các trường hợp:
- Điều trị hen phế quản.
- PULMICORT có thể được sử dụng khi cần thiết phải thay thế hoặc giảm liều steroid đường uống.
- PULMICORT RESPULES có thể dùng trong điều trị viêm thanh quản – khí quản – phế quản cấp (bệnh Croup) ở nhũ nhi và trẻ em.
Liều dùng của ‘Pulmicort Respules’
Cách dùng thuốc Pulmicort
- Pulmicort Respules nên được sử dụng với máy khí dung thích hợp. Lượng thuốc phóng thích đến bệnh nhân thay đổi từ 40-60% liều sử dụng tùy thuộc vào thiết bị khí dung. Thời gian khí dung và lượng thuốc được phóng thích phụ thuộc vào tốc độ dòng khí, thể tích buồng chứa và thể tích thuốc nạp vào. Thể tích thuốc nạp vào thích hợp cho hầu hết máy khí dung là 2-4 mL.
Sự lắng đọng có thể xảy ra khi bảo quản Pulmicort Respules. Nếu sau khi lắc mà thuốc không trở lại dạng hỗn dịch thì nên loại bỏ ống thuốc.
Liều dùng thuốc Pulmicort
Liều khởi đầu, hoặc trong giai đoạn hen nặng, hoặc trong thời gian giảm liều corticosteroid đường uống:
- Người lớn: 1 – 2mg x 2 lần/ngày.
- Trẻ em: 0,5 – 1mg x 2 lần/ngày.
Điều trị duy trì:
Tùy thuộc cá nhân và nên dùng liều thấp nhất làm mất triệu chứng. Liều chỉ định là:
- Người lớn: 0,5 – 1mg x 2 lần/ngày.
- Trẻ em: 0,25 – 0,5mg x 2 lần/ngày.
Quá liều và xử trí
Triệu chứng
Hầu hết trường hợp quá liều không gây ra triệu chứng rõ ràng mà chỉ làm giảm nồng độ cortisol trong huyết tương và tăng số lượng và tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính trong máu. Số lượng và tỷ lệ bạch cầu lympho và ái toan giảm. Quá liều thường xuyên có thể gây cường năng vỏ thượng thận và ức chế trục hạ đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận.
Điều trị
Ngưng PULMICORT hoặc giảm liều sẽ làm mát hẳn triệu chứng, mặc dù trục hạ đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận có thể hồi phục chậm.
Tác dụng phụ của ‘Pulmicort Respules’
PULMICORT nói chung được dung nạp tốt. Đa số các phản ứng ngoại ý nhẹ và tại chỗ. Tác động toàn thân và các biến chứng miệng – hầu gây ra bởi Budesonid được nhận thấy là phụ thuộc vào liều.
Biểu hiện lâm sàng của việc dùng quá liều steroid xảy ra ở 50% bệnh nhân (n=10) dùng liều ≥ 1,6mg Budesonid mỗi ngày trong thời gian dài.
Theo các nghiên cứu lâm sàng, y văn và kinh nghiệm sau khi lưu hành thuốc, một số tác dụng ngoại ý sau có thể xảy ra:
Thường gặp (> 1%)
Mũi – họng: khàn giọng; đau, kích thích cổ họng; kích thích lưỡi và miệng; khô miệng; nấm Candida miệng.
Hô hấp: ho.
Ít gặp (< 1%)
Mũi – họng: kích thích thanh quản; vị giác kém.
Tiêu hoá: tiêu chảy; buồn nôn.
Phản ứng quá mẫn: các phản ứng quá mẫn tức thời và muộn như phản ứng da (nổi mề đay, ban đỏ, viêm da); co thắt phế quản, phù mạch và phản ứng phản vệ.
Hệ thần kinh trung ương: nhức đầu; choáng váng; cảm giác khát; mệt mỏi.
Rối loạn chuyển hoá và dinh dưỡng: tăng cân.
Nếu nấm Candida ở miệng hầu phát triển, có thể điều trị với thuốc kháng nấm thích hợp trong khi vẫn tiếp tục sử dụng PULMICORT. Có thể giảm thiểu nhiễm nấm Candida bằng cách súc miệng sau mỗi lần hít.
Steroid hít có thể có các phản ứng ngoại ý nếu dùng liều cao hơn liều khuyến cáo; các tác động toàn thân có thể gặp khi dùng corticosteroid dạng hít bao gồm ức chế trục HPA, giảm mật độ xương và giảm tốc độ phát triển ở trẻ em (xem Thận trọng – Tác động toàn thân có thể xảy ra khi dùng corticosteroid dạng hít).
– Giảm tốc độ phát triển đã được ghi nhận do dùng corticosteroid hít, tuy nhiên các nghiên cứu với Budesonid cho thấy điều này chỉ thoáng qua và cuối cùng cũng đạt đến chiều cao mục tiêu khi trưởng thành (xem Thận trọng – Tăng trưởng).
– Sự ức chế trục HPA phụ thuộc liều đã được ghi nhận khi dùng Budesonid, tuy nhiên tình trạng này có thể xem như sự đáp ứng sinh lý hơn là suy tuyến thượng thận (xem Thận trọng – ức chế trục HPA và suy tuyến thượng thận). Chưa xác định liều thấp nhất liên quan đến suy giảm chức năng tuyến thượng thận trong lâm sàng.
– Không ghi nhận có tác động ức chế mật độ xương trên người lớn dùng Budesonid hít ở các liều khuyến cáo. Trên trẻ em, mật độ khoáng của xương nên được phân tích thận trọng vì sự gia tăng ở vùng xương có thể phản ánh sự tăng thể tích xương (xem Thận trọng – Mật độ xương).
Hiếm có báo cáo về thâm tím da xảy ra khi dùng glucocorticosteroid dạng hít.
Các triệu chứng về tâm thần như rối loạn hành vi, kích thích, bồn chồn và trầm cảm đã được ghi nhận khi dùng Budesonid cũng như các glucocorticosteroid khác.
Có thể xảy ra kích ứng da mặt trong một vài trường hợp khi sử dụng máy xông khí dung (nebuliser) với mặt nạ. Để ngăn ngừa sự kích ứng, nên rửa mặt sau mỗi lần dùng PULMICORT RESPULES qua máy xông khí dung (nebuliser) và mặt nạ.
PULMICORT hiếm khi gây co thắt phế quản ở những bệnh nhân nhạy cảm. Cơn co thắt phế quản có thể được điều trị bằng thuốc cường giao cảm bêta 2 dạng hít.
Lưu ý của ‘Pulmicort Respules’
Chống chỉ định
Mẫn cảm với Budesonid hay bất cứ thành phần nào của chế phẩm.
Thận trọng khi sử dụng
Lái xe
PULMICORT hỗn dịch khí dung không ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy.
Thai kỳ
- Lợi ích của việc kiểm soát hen đã được đánh giá là vượt trội hơn so với các tác động ngoại ý có thể xảy ra cho mẹ và thai nhi.
- Kết quả từ một nghiên cứu tiền cứu lớn về dịch tễ học và các kinh nghiệm trong quá trình lưu hành thuốc cho thấy dùng Budesonid dạng hít trong thời gian mang thai không gây các tác động ngoại ý đối với bào thai hoặc trẻ sơ sinh.
- Nên xem xét đến việc dùng các glucocorticosteroid dạng hít như Budesonid vì tác động toàn thân thấp so với các glucocorticosteroid dùng đường uống ở các liều có đáp ứng tương đương tại phổi.
Phụ nữ cho con bú:
- Budesonid bài tiết qua sữa mẹ. Tuy nhiên, do liều dùng tương đối thấp khi sử dụng qua đường hít nên nếu thuốc có hiện diện trong sữa thì cũng với một lượng thấp. Nếu lợi ích cao hơn nguy cơ có thể xảy ra thì vẫn có thể xem xét đến việc cho con bú trong thời gian dùng thuốc.
Tương tác thuốc
Budesonid chuyển hoá chủ yếu qua trung gian CYP3A, một phân nhóm của hệ thống men cytochrome P450. Vì thế, các chất ức chế men này như Ketoconazol và Itraconazol có thể làm tăng nồng độ Budesonid toàn thân. Điều này ít có ý nghĩa về mặt lâm sàng khi điều trị ngắn hạn (1 – 2 tuần) với thuốc ức chế CYP3A, nhưng cần xem xét đến khi điều trị lâu dài.
Quy cách
Nhà sản xuất
Nước sản xuất
- Mọi thông tin trên đây chỉ mang tính chất tham khảo. Việc sử dụng thuốc phải tuân theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên môn.